HOA VÀ ĐỜI SỐNG
Đăng lúc 00:00 ngày 27/05/2017
Lượt xem 2160
Từ cổ xưa cho đến ngày nay, dẫu cho những quan niệm về những cái đẹp đã bao lần thay đổi, hoa vẫn mãi mãi có sức hấp dẫn lạ kỳ. Hoa hấp dẫn bởi không phải chỉ vì hương sắc quyến rũ, dáng vẻ yêu kiều gần gũi của nó, mà còn bởi một sức mạnh tinh thần rất kỳ diệu huyền bí mà con người cảm nhận được ở hoa. Hoa luôn luôn là biểu tượng của cuộc sống tâm hồn, là tình yêu, là cái đẹp. Hoa góp vui, chia buồn, góp phần làm cho tình người thêm đẹp, cuộc sống thêm tươi. Trong khẩu hiệu đấu tranh cách mạng "Bánh mì và hoa hồng" do V. I. Lênin khởi xướng, hoa đã được nâng lên thành một biểu tượng của cuộc sống tinh thần, một cuộc sống thứ hai của con người, cao hơn, tốt đẹp hơn.
Mỗi loài hoa, mỗi màu hoa có tiếng nói tình cảm của riêng mình. Mỗi dân tộc có tục lệ chơi hoa và cảm nhận về hoa cũng khác nhau. Cho nên khi tặng hoa cho người nước ngoài, cần phải biết phong tục của họ. Hoa hồng được coi là hoàng hậu, là bà chúa của các loài hoa. Vì vậy ở một số nước châu Âu có tục lệ khi tặng hoa hồng người ta chỉ tặng một bông. Nếu tặng nhiều hơn sẽ bị coi là hợm mình là không hiểu hết giá trị của hoa. Hoa cúc bạch nhật là biểu tượng của tấm lòng trung hậu, nhân đức. Hoa Tuy líp còn gọi là hoa Uất kim cương hoặc hoa Vành khăn biểu tượng của lòng tin, hy vọng và sự chiến thắng. Vì vậy ở châu Âu vào dịp đầu năm, người ta hay tặng nhau hoa Tuylip. Dân tộc Nga có tục lệ khi trai gái yêu nhau để thay cho những tình cảm khó nói ra bằng lời đó, các chàng trai thường dùng hoa Tuylip đỏ thắm để tỏ tình cùng cô gái. Thật là lố bịch nếu tặng Tuylip đỏ cho những phụ nữ đã quá luống tuổi hoặc đã có chồng. Còn hoa Thiên điểu được coi là ?sứ giả báo tin vui?. Sẽ rất bất nhã nếu bạn tặng hoa Thiên điểu cho người nào khi chẳng có tin vui gì để báo cho họ. Còn hoa bông trang (hoa mẫu đơn) là hiện thân của sự hoài nghi. Cho nên sau khi tặng hoa cho người mình yêu, đóa hồng hoặc Tuy lip hoặc cánh Păngxê mà còn nhận lại nhành hoa Trang có nghĩa là bạn đã bị từ chối hoặc đối tượng của bạn còn phân vân, nghi ngại. Ở các nước châu Á, người ta coi hoa huệ là biểu tượng của sự thanh cao. Cho nên từ thuở rất xa xưa trong lịch sử, hoa huệ được chọn làm lễ vật hiến Phật tổ. Tục lệ này bắt nguồn từ Ấn Độ, sang Trung Quốc, Nhật Bản rồi lan sang các nước khác. Hoa nhài không bao giờ được đem đặt lên bàn thờ tổ tiên bởi vì nó bị coi là thứ trăng hoa thấp hèn. Ở nước ta, việc dâng hoa cúng lễ tổ tiên xuất hiện rất lâu đời, ngày nay và có lẽ mãi mãi về sau tục lệ tốt đẹp ấy sẽ tồn tại muôn đời cùng dân tộc ta. Trong ngày giỗ, lễ sinh nhật, cuộc tiễn đưa, buổi đón khách, hội hè... ít khi vắng hoa tươi. Con người ta suốt cả cuộc đời gắn bó cùng hoa.
Hoa làm cho tâm hồn người ta vui tươi, thanh thảnh. Trong nhiều tháng năm dài gian khổ, chiến tranh diễn ra tàn khốc, anh lính cụ Hồ đã trồng hoa trên ụ pháo, bên miệng hố tránh bom cá nhân, giữa những lán trại ở nơi đèo heo hút gió trên điểm tựa tiền tiêu, trên chốt, những nơi ngày đêm thu hút pháo địch, đạn thù, hoa đã cùng người chiến sỹ bầu bạn sớm khuya.
Trong bài thơ "Thăm hầm pháo thủ" Nguyễn Xuân Niên đã nói được phần nào tâm hồn người chiến sỹ yêu hoa:
"Đây rồi "nhà pháo" rộng thênh thanh
Hào nối qua hầm, gian tiếp gian
Mấy khóm hoa tươi cười trước cửa
Bóng mây lồng bóng lá nguỵ trang"
và trong một bài thơ khác, Nguyễn Bao viết:
"Ngang điểm tựa sườn non
Một gốc đào tỏa sáng
Quên gió lạnh ngày đông
Sắc hoa thành lửa ấm"
Năm 1972, thời kỳ Hà Nội sục sôi chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ là thời kỳ chưa từng bao giờ như vậy, Hà Nội dấy lên sâu rộng phong trào chơi phong lan. Từ các chiến trường Trường Sơn, Đông Nam Bộ, hoa phong lan theo các đoàn xe về thăn Thủ đô Hà Nội. Tai trâu được mùa chưa từng có. Và thật bất ngờ, sau suốt mười hai ngày đêm kịch chiến trên không, cả Hà Nội vết thương chiến tranh vẫn chưa lành miệng, Tết năm ấy ở chợ hoa truyền thống Hà Nội tràn ngập hoa tươi. Hoa giăng hàng mở hội, phô sắc khoe hương khắp mấy phố dài. Từ Cống Chéo đến Hàng Lược, Hàng Giấy, Hàng Chả cá, Đường Thành tràn cả ra đường Phan Đình Phùng từng làm xúc động triệu triệu tấm lòng, thu hút bao nhiêu ống kính của khách nước ngoài. Hoa xua tan bóng ma giặc Mỹ, đẩy lùi nỗi khổ đau mất mát, làm tăng thêm niềm kiêu hãnh tự hào của người chiến thắng.
Từ Âu sang Á, tận cổ chí kim, trẻ già, trai gái ai ai cũng yêu hoa. Thời nào, dân tộc nào hoa cũng là biểu tượng cho những tấm lòng cởi mở, đôn hậu, niềm vui và cái đẹp. Cuộc sống càng sung túc, kinh tế càng phát triển, lao động càng đi vào công nghiệp, nhu cầu về hoa tươi càng lớn, nghề trồng hoa càng có tiền đồ rạng rỡ.
Ngay từ thế kỷ thứ XI, việc sử dụng hoa tươi để trang trí nội thất đã trở thành phổ biến ở nhiều nước châu Á, châu Âu. Sang thế kỷ XVIII, hoa trở thành đối tượng nghiên cứu của nhiều nhà khoa học trên thế giới. Thế kỷ thứ XIX bắt đầu xuất hiện những học thuyết khoa học đầu tiên về hoa. Năm 1894, Habegi người Italia và Becxây, người áo đưa ra giả định rằng: Hoa có nguồn gốc từ cành và nhánh con của cây bị biến dạng do sự thay đổi môi trường sống. Trên cơ sở học thuyết này của Habegi, các nhà sinh lý học thực vật Xô viết tiếp tục nghiên cứu và đã khẳng định được rằng: Hoa là kết quả biến đổi của lá và chồi non của cây, tạo thành dưới tác động điều tiết của các hoóc-môn thực vật.
Phát hiện này đã mở cho các nhà nông, những người làm vườn bước ngoặt quan trọng trong nhận thức về cây trồng, giúp họ nắm được kỹ thuật điều khiển sự ra hoa, sự nảy mầm của cây trồng bằng các tác nhân lý hóa.
Vào những ngày cuối thu và suốt cả mùa đông dài, châu Âu mà kiếm được mấy bông hoa tặng thầy, tặng bạn, tặng những người thân yêu trong gia đình nhân ngày sinh, ngày cưới hay một ngày vui nào đó là cả một vấn đề. Hoa đã đắt lại hiếm. Để có hoa tươi dùng vào mùa đông, người ta phải nhập hoa từ những nước xa xôi ở nhiệt đới với giá rất đắt hoặc phải trồng hoa trong những vườn nhà kính. Tiền đầu tư cho mỗi hecta vườn kính rất lớn, thiết bị thường phải mua của Hà Lan. Ở Pháp, để xây dựng một hecta vườn kính trồng hoa chỉ riêng đầu tư cho việc mua sắm các thiết bị như vòm kính máy phun, hệ thống tự động điều chỉnh nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng đã tốn trên hai triệu frăng. Trong khi đó, ở nước ta, đặc biệt là ở Đà Lạt không những có thể trồng hoa quanh năm mà còn có thể trồng rất tốt những loài hoa quý xứ lạnh như Layơn, cúc, thược dược, các loại lan. Phong lan và địa lan không chiếm nhiều đất, không xen lấn các cây trồng khác, trồng lan không sợ mất đất.
Nếu chúng ta thực hiện được khẩu hiệu: "nhà nhà trồng lan", "người người trồng lan", đưa lan vào mỗi vườn nhà, vào trong từng khung cửa sổ, trên mỗi bậu lan can như điều phần đông bà con Đà Lạt hằng mong ước là chúng ta góp phần mở rộng xuất khẩu, góp phần thực hiện có hiệu quả 3 mục tiêu kinh tế lớn của nhà nước: lương thực, hàng tiêu dùng và xuất khẩu. Điều này sẽ không có thể khôi phục lại số lượng vài ba chục tấn hoa tươi xuất khẩu hàng năm như trước đây mà chắc chắn còn có thể nâng cao con số lên cao hơn nữa. Làm được như vậy sẽ tạo công ăn việc làm cho bà con trong thành phố, tăng thu nhập cho mỗi gia đình kể cả công nhân, nông dân, cán bộ.